HỌC HỎI PHÚC ÂM CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN – Năm A
Lời Chúa (Mt 20,1-16a)
1 Khi ấy, Đức Giê-su kể cho các môn đệ nghe dụ ngôn này : “Nước Trời giống như chuyện chủ nhà kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình. 2 Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc. 3 Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. 4 Ông cũng bảo họ : ‘Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng.’ 5 Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy. 6 Khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ : ‘Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết ?’ 7 Họ đáp : ‘Vì không ai mướn chúng tôi.’ Ông bảo họ : ‘Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho !’ 8 Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý : ‘Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất.’ 9 Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. 10 Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. 11 Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn chủ nhà : 12 ‘Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt.’ 13 Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ : ‘Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao ? 14 Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. 15 Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao ? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức ?’ 16a Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót.”
HỌC HỎI:
- Đọc Mt 13,24.31.33.44.45.47 và Mt 20,1. Có điểm gì chung trong các câu trên đây?
- Ý nghĩa của lối nói: giờ thứ ba, thứ sáu, thứ chín, thứ mười một. Theo bạn, tại sao ông chủ lại ra chợ nhiều lần để mướn thợ như vậy, ngay cả khi ngày sắp tàn?
- Đọc Mt 20,3-4 và Mt 20,6-7. Có gì giống nhau trong hai đoạn văn này?
- Đọc Mt 20,8-9. Cách trả công của ông chủ có gì lạ?
- Đọc Mt 20,10-12. Tại sao họ cằn nhằn ông chủ? Sự bực bội này có giống với sự tức giận của người con cả trong Tin Mừng Luca 15,28 không?
- Đọc Mt 20,13-15a. Khi bị coi là đối xử bất công với nhóm thợ đầu tiên, ông đã biện hộ cho mình như thế nào?
- Câu Mt 20,15b được dịch sát như sau: “Hay mắt bạn xấu vì tôi tốt?” Mắt xấu (Mt 6,23) ở đây nghĩa là gì? Thế nào là thái độ ganh tỵ? Ông chủ “tốt” ở điểm nào?
- Bài Tin Mừng hôm nay là một dụ ngôn về Nước Trời. Người đứng cuối lại được hưởng ơn cứu độ như người đứng đầu. Bạn có quen ai được gọi vào giờ thứ mười một không?
GỢI Ý SUY NIỆM:
Chúng ta thường quen với một Thiên Chúa công bằng, thưởng phạt phân minh. Bài Tin Mừng này có cho tôi thấy một Thiên Chúa quảng đại và tốt lành không?
PHẦN TRẢ LỜI:
- Có một điểm chung giữa các câu Mt 13,24.31.33.44.45.47 với câu Mt 20,1 đó là lối nói “Nước Trời giống như chuyện…” Để nói về Nước Trời là một thực tại siêu việt, Đức Giêsu đã dùng các dụ ngôn với những hình ảnh gần gũi với đời thường, nhờ đó thính giả bình dân có thể hiểu được phần nào. Dụ ngôn không quá khó hiểu đối với ai biết mở lòng, nhưng đối với ai chưa sẵn sàng, dụ ngôn có thể trở nên khó hiểu. Có lúc Đức Giêsu đã phải giải thích dụ ngôn cho các môn đệ (Mt 13,18-23.36-43) và cuối cùng, họ đã hiểu (Mt 13,51).
- Có thể nói ông chủ vườn nho ra chợ để tìm công nhân cả thảy năm lần. Lần đầu lúc “tảng sáng” (6 giờ sáng), lần thứ hai vào giờ thứ ba (9 giờ sáng), lần thứ ba vào giờ thứ sáu (12 giờ trưa), lần thứ tư vào giờ thứ chín (3 giờ chiều), và lần cuối vào giờ thứ mười một (5 giờ chiều). Ông chủ trả lương cho các thợ vào lúc “chiều đến” (Mt 20,8), nghĩa là khoảng giờ thứ mười hai (6 giờ chiều). Vậy người thợ đã làm việc cả ngày, mười hai tiếng. Ông chủ trả lương mỗi ngày công là một quan tiền. Quan tiền này là đồng denarius, đồng tiền của người Rôma, một mặt có hình của Xê-da (Mt 22,19-20). Ông chủ đã giữ đúng Luật trong Cựu Ước khi trả công cho thợ vào cuối ngày (Lv 19,13; Đnl 24,15).
Ông chủ đã ra chợ nhiều lần để mướn thợ làm việc cho vườn nho của ông. Có thể vì ông không biết trước được công việc này cần bao nhiêu thợ, hay vì ông quyết định gấp rút làm cho xong việc, không để tới mai.
- Hai đoạn Mt 20,3-4 và Mt 20,6-7 có đôi nét giống nhau. Nhóm thợ giờ thứ ba và nhóm thợ giờ thứ mười một đều là những những người đang “đứng,” không có việc làm (argoi), và chờ được ai đó mướn. Chính vì thế khi ông chủ kêu họ đi làm vườn nho cho ông thì họ đi ngay. Nhóm thợ giờ thứ mười một, tuy không chịu vất vả nắng nôi “cả ngày” ngoài vườn nho như nhóm thợ lúc sáng sớm, nhưng họ đã có công đứng chờ “cả ngày.” Đứng chờ trong lo âu thấp thỏm cả ngày cũng là một điều đáng kể.
- Cách trả công của ông chủ vườn nho khá khác thường (Mt 20,8-9) Ông trả công trước tiên cho người làm sau cùng, rồi sau đó mới trả công cho những người làm sớm nhất. Những người làm từ giờ thứ mười một, nghĩa là mới làm việc có một tiếng, được trả công một đồng quan. Đây là lối trả công quá hậu hĩnh, vì bình thường lương công nhật là một đồng quan nếu làm cả ngày. Chắc họ rất ngỡ ngàng và vui sướng với số lương cần thiết để họ đủ sống một ngày.
- Sau khi trả công cho nhóm giờ thứ mười một, ông chủ vườn nho lần lượt trả công cho các nhóm khác, bắt đầu từ nhóm đầu tiên. Đây là nhóm những người bắt đầu làm việc sớm nhất, và đã làm việc trong khoảng thời gian 12 tiếng. Họ bị hụt hẫng vì họ “tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, nhưng mỗi người cũng chỉ được một quan tiền” (Mt 20,10). Họ tưởng như thế vì họ nghĩ ông chủ sẽ đối xử công bằng theo lối hiểu của họ. Đối với họ, không thể nào trả lương cho người làm việc cả ngày vất vả nắng nôi bằng với số lương của người làm có một tiếng lúc chiều tà (Mt 20,11). Như vậy là không hợp lẽ công bằng. Chính vì thế họ “cằn nhằn” ông chủ. Chúng ta thông cảm với thái độ khó chịu này của họ. Sự bực bội của họ cũng tương tự như sự nổi giận của người anh cả khi thấy cha cư xử quá tốt với người em dù nó đã hư hỏng nhưng nay trở về (Lc 15,28). Đối với anh cả, người cha thật không công bằng chút nào (Lc 15,29).
- Ông chủ đã gọi một người trong nhóm thợ đầu tiên là “Này bạn” (Mt 20,13; xem Mt 22,12 và 26,50). Ông khẳng định mình không hề đối xử bất công với anh ta, vì hai bên đã đồng ý với nhau về tiền công mỗi ngày một quan (Mt 20,2). Và ông đã trả đủ. Ông muốn cho người thợ giờ thứ mười một, số lương bằng những người thợ đầu tiên, há ông lại không được phép làm điều đó hay sao? Ông có quyền sử dụng tài sản của ông chứ! (Mt 20,13-15). Nói chung ông muốn cho thấy là mình không hề bất công.
- “Hay mắt của bạn xấu vì tôi tốt” (Mt 20,15b). “Mắt xấu” là lối nói ta còn gặp được Mt 6,23. Đây là lối nói của dân Sê-mít để mô tả lòng ghen tỵ, vì thấy người khác có điều mà người đó không xứng đáng. Người ghen tỵ thì chẳng bao giờ vui và bình an. “Vì tôi tốt” cho thấy con người của ông chủ vườn nho. Trước hết ông là người công bằng khi trả cho nhóm thợ đầu tiên mỗi người một quan tiền, đây là lương công nhật bình thường của người thợ vào thời Đức Giêsu. Hơn nữa, ông còn trả số tiền ấy cho tất cả các nhóm thợ được gọi để làm vườn nho, bất chấp họ bắt đầu làm việc vào giờ nào trong ngày, kể cả những người chỉ làm có một tiếng. Ông chủ là người “tốt” vì ông không bất công với ai, và lòng tốt của ông còn vượt quá sự công bằng nữa. Chắc ông biết mọi người thợ đều cần có tiền để sinh sống. Cả người đứng không suốt ngày chờ được mướn cũng là làm việc rồi. Đọc Mt 20,3-4.6-7.9 để thấy lòng tốt của ông.
- Có thể nói anh trộm lành là hình ảnh của người thợ giờ thứ mười một (Lc 23,39-43). Anh được hưởng ơn cứu độ vào những giờ phút cuối cùng trên thập giá, sau một cuộc đời nhiều bóng tối. Anh chỉ xin Đức Giêsu nhớ đến anh, nhưng Ngài đã đưa anh vào thiên quốc để ở với Ngài. Dụ ngôn trên đây và truyện anh trộm lành cho chúng ta niềm hy vọng cứu độ. Chúng ta không được cứu độ dựa trên công lao, công đức hay công trạng của chúng ta, nhưng dựa trên tình thương của Chúa.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.