CÁC TRÍCH DẪN THEN CHỐT TỪ FRATELLI TUTTI (TẤT CẢ LÀ ANH EM)
Ngày 4 tháng 10 năm 2020 bởi Cha Matthew P. Schneider, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô
Đan Quang Tâm dịch
Nguồn:
Hôm nay (4 tháng 10 năm 2020), Đức Thánh Cha Phanxicô công bố Thông điệp Fratelli Tutti. Tôi đã đọc toàn bộ thông điệp trong ngày hôm nay. Khi đọc, tôi tô sáng những dòng tôi thích và xếp chúng theo thứ tự như một loại tóm tắt cỡ vừa Thông điệp. Fratelli Tutti khó tóm tắt hơn một chút so với nhiều văn kiện giáo hoàng khác nên bản văn tóm lược cuối cùng chiếm khoảng 15% độ dài Thông điệp và được chia thành hai phần (xin xem tiếp phần hai). Tôi cố gắng cung cấp càng nhiều câu trích dẫn càng tốt để gửi cho bạn một bản tóm tắt theo góc nhìn của tôi và trực tiếp những gì Đức Giáo hoàng muốn mọi người nghe. Tôi hy vọng bạn tìm thấy việc này hữu ích.
Dẫn nhập
Tóm lược chuyến đi của Thánh Phanxicô gặp vua Hồi giáo: “Thánh Phanxicô không gây chiến bằng những lời lẽ nhằm áp đặt các học thuyết; ngài chỉ đơn giản truyền bá tình yêu của Thiên Chúa. Ngài hiểu rằng “Thiên Chúa là tình yêu và những ai ở trong tình yêu thì cũng ở trong Thiên Chúa” (1Ga 4,16). Bằng cách này, ngài trở thành một người cha của tất cả mọi người và truyền cảm hứng về tầm nhìn một xã hội huynh đệ. Thật vậy, “chỉ người nào đến với những người khác, không để lôi kéo họ vào cuộc sống của mình, nhưng để giúp họ trở nên chính họ một cách đầy đủ hơn, mới thực sự có thể gọi là một người cha” (4)
Một loại luận điểm cho toàn bộ thông điệp: “Tôi mong muốn rằng, trong thời đại này của ta, bằng cách nhìn nhận phẩm giá của mỗi người, ta có thể góp phần vào việc tái sinh một khát vọng phổ quát về tình huynh đệ. Tình huynh đệ giữa mọi người nam và người nữ”. (8)
Chương Một: Những đám mây đen trên một thế giới đóng kín
Điều này giới thiệu một chủ đề lặp đi lặp lại trong Chương 1: cần xem người khác là anh chị em hơn kẻ thù: “Trong nhiều thập niên, dường như thế giới đã học được bài học từ nhiều cuộc chiến tranh và các thảm họa chiến tranh, và đang tiến dần đến nhiều hình thức hội nhập khác nhau”. (10)
Một lời nhắc nhở rằng ta được kêu gọi để cải thiện thế giới. “Không thể an nhiên tự tại với những gì đã đạt được trong quá khứ và tự mãn tận hưởng nó, như thể bằng cách nào đó, ta có thể đã coi thường thực tại là nhiều anh chị em của chúng ta vẫn còn đang phải chịu đựng những tình huống kêu gào ta phải lưu tâm”. (11)
Vấn đề của một nền văn hóa quá thiên về chủ nghĩa cá nhân: “Các xung đột địa phương và việc coi thường công ích bị nền kinh tế hoàn cầu khai thác để áp đặt một mô hình văn hóa duy nhất. Nền văn hóa này thống nhất thế giới, nhưng chia rẽ con người và các quốc gia, vì “khi xã hội ngày càng trở nên toàn cầu hóa, nó khiến ta trở thành láng giềng, nhưng không khiến ta trở thành anh em”. Ta cô đơn hơn bao giờ hết trong một thế giới ngày càng đông đảo cổ vũ các lợi ích cá nhân và làm suy yếu chiều kích cộng đồng của cuộc sống”. (12)
Lịch sử dạy ta các bài học: “Ngày càng mất đi cảm thức về lịch sử, dẫn đến sự chia rẽ còn sâu xa hơn. Một loại ‘giải cấu trúc’ (deconstruction), theo đó tự do của con người cho là mình có thể tạo ra mọi thứ từ con số không, đang tung hoành trong nền văn hóa ngày nay. Một điều giải cấu trúc để lại phía sau là động lực tiêu dùng vô hạn và các biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân trống rỗng”. (13)
Thật không may, tôi thấy kiểu phân cực chính trị này của những người trong cả hai chính đảng lớn của Hoa Kỳ: “Cách tốt nhất để thống trị và giành quyền kiểm soát người ta là gieo rắc sự tuyệt vọng và chán nản, ngay cả dưới chiêu bài bảo vệ những giá trị nào đó. Ngày nay, ở nhiều quốc gia, chủ nghĩa cường điệu, cực đoan và phân cực đã trở thành các công cụ chính trị. Sử dụng chiến lược chế giễu, nghi ngờ và không ngừng chỉ trích, theo nhiều cách khác nhau, người ta phủ nhận quyền hiện hữu hoặc quyền có ý kiến của người khác”. (15)
Hy vọng về một tình hình chính trị tốt hơn: “Giữa những xung đột lợi ích, trong đó chiến thắng hệ tại việc loại trừ các đối thủ của mình, làm thế nào có thể nâng các tầm nhìn của ta để nhận ra những người thân cận của ta hoặc để giúp đỡ những người đã ngã gục dọc đường?” (16)
Một lời kêu gọi thực sự về việc bảo vệ người già, người nghèo, người chưa sinh và người khuyết tật: “Dường như một số thành phần trong gia đình nhân loại của ta có thể sẵn sàng bị hy sinh vì những người khác được xem là đáng hưởng một cuộc sống vô tư. Cuối cùng, “con người không còn được xem là có giá trị tối quan trọng cần được chăm sóc và tôn trọng, đặc biệt là khi họ nghèo và tàn tật, “chưa có ích”– như người chưa sinh, hoặc “không còn cần thiết nữa”– như người cao tuổi. Ta đã trở nên thờ ơ với mọi loại lãng phí, bắt đầu với việc lãng phí thức ăn, một điều cực kỳ đáng trách”. (cả đoạn 18)
Việc ta thiếu chăm sóc đối với người cao tuổi cho thấy cách ta dành giá trị ưu thế cho chủ nghĩa cá nhân: “Tỷ lệ sinh giảm, dẫn đến dân số già, cùng với việc người cao tuổi rơi vào một cuộc sống buồn bã và cô đơn, là một cách tinh tế để nói rằng tất cả là do ta, rằng mối quan tâm cá nhân của ta là điều duy nhất quan trọng”. (19)
“Đói nghèo phải luôn được hiểu và đánh giá trong bối cảnh các cơ hội thực tế có sẵn trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể”. (21) Ví dụ, ngày nay thiếu nước sạch và điện được coi là nghèo trong khi những thứ này chỉ là thiếu qua nhiều lịch sử.
Một lời nhắc nhở rằng những điều như Tuyên ngôn Nhân quyền của Liên hợp quốc chứa đựng các giá trị Công giáo: “Bằng cách quan sát kỹ các xã hội đương thời của ta, ta thấy có vô số mâu thuẫn khiến ta tự hỏi liệu phẩm giá bình đẳng của mọi người, được tuyên bố long trọng cách đây 70 năm, có thực sự được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và thăng tiến trong mọi tình huống không”. (22)
Xã hội không đồng đều của ta cho thấy ta có chỗ để phát triển về quyền con người: “Trong khi một bộ phận nhân loại sống trong sự xa hoa, thì một bộ phận khác lại thấy phẩm giá của mình bị khước từ, bị khinh miệt hoặc bị chà đạp, và các quyền cơ bản của mình bị loại bỏ hoặc vi phạm. Điều này bảo ta điều gì về quyền bình đẳng dựa trên phẩm giá bẩm sinh của con người?” (22)
“Chiến tranh, các cuộc tấn công khủng bố, đàn áp chủng tộc hoặc tôn giáo và nhiều hành vi khác ảnh hưởng đến phẩm giá con người được nhìn theo các cách khác nhau, tùy theo chúng hợp hay không với các lợi ích nhất định, chủ yếu là lợi ích kinh tế”. (25) Ví dụ, tại sao ít quốc gia lên án cuộc diệt chủng người Armenia hoặc các cuộc đàn áp hiện nay (người Duy Ngô Nhĩ, người Kitô giáo, người Hồi giáo, v.v.) ở Trung Quốc.
Ta nên cố gắng nhìn thấy vẻ đẹp ở tất cả những ai ta đang chung sống. “Ta ngày càng cảm thấy rằng ‘khoảng cách giữa sự quan tâm đến phúc lợi bản thân của người ta và sự thịnh vượng của gia đình nhân loại rộng lớn hơn dường như đang trải dài đến mức gây chia rẽ hoàn toàn giữa các cá nhân và cộng đồng con người… Cảm thấy buộc phải sống chung là một việc, nhưng biết trân trọng sự phong phú và vẻ đẹp nơi các hạt giống của cuộc sống chung cần tìm kiếm và vun trồng lại là một việc khác’”. (31)
Một câu nói hay nhất cho đến nay: “Tuy nhiên, tất cả quá nhanh, ta quên mất những bài học lịch sử”. (35)
Đức Phanxicô lên án các chính sách cực đoan về nhập cư: “Không ai có thể công khai phủ nhận rằng họ [những người nhập cư] là con người, nhưng trên thực tế, bằng quyết định của ta và cách ta đối xử với họ, ta có thể cho thấy rằng ta coi họ là người ít xứng đáng hơn, ít quan trọng hơn, ít người hơn. Đối với các Kitô hữu, lối suy nghĩ và hành động này là không thể chấp nhận được, vì nó đặt những sở thích chính trị nhất định lên trên các xác tín sâu xa về đức tin của ta: phẩm giá bất khả xâm phạm của mỗi con người bất kể nguồn gốc, chủng tộc hay tôn giáo, và luật tối cao là tình yêu thương huynh đệ”. (39)
Đây là lần đầu tiên trong một văn kiện quan trọng mà bất kỳ Giáo hoàng nào đã từng chỉ ra “quyền riêng tư” tồn tại. “Thật kỳ quặc, trong khi các thái độ khép kín và bất khoan dung với người khác đang gia tăng, thì mặt khác, các khoảng cách lại đang thu hẹp hoặc biến mất đến mức quyền riêng tư ít còn hiện hữu. Mọi sự đã trở thành một thứ cảnh tượng cần khảo sát và kiểm tra và cuộc sống của con người hiện đang bị giám sát không ngừng. Truyền thông kỹ thuật số muốn đưa mọi sự ra thanh thiên bạch nhật; cuộc sống của người ta bị bươi móc, lột trần và bàn tán, thường là nặc danh. Sự tôn trọng tha nhân tan vỡ, và ngay khi ta gạt bỏ, làm ngơ hoặc giữ khoảng cách với người khác, ta vẫn có thể trâng tráo soi mói từng chi tiết cuộc đời của họ”. (42)
“Chúng [các mối quan hệ kỹ thuật số] thiếu các cử chỉ thể lý, nét mặt, khoảnh khắc im lặng, ngôn ngữ thân thể và thậm chí cả những mùi vị, bàn tay run run, sự đỏ mặt và ra mồ hôi vẫn ngỏ lời với ta và là một phần của sự truyền thông con người.” (43) Tôi nghĩ những điều này có giá trị giá trị nhưng ta không nên đánh giá thấp hoàn toàn các tình bạn kỹ thuật số.
Vấn đề của thế giới ngày nay là quá tập trung vào bản thân: “Khả năng ngồi xuống và lắng nghe người khác, đặc trưng của những cuộc gặp gỡ liên vị, là điển hình của thái độ chào đón được thể hiện bởi những người vượt qua xu hướng ái kỷ và chấp nhận người khác, quan tâm đến họ và chào đón họ vào cuộc đời mình”. (48)
“Thiên Chúa tiếp tục gieo nhiều hạt giống sự thiện trong gia đình nhân loại chúng ta”. (54). Ta cần phải hy vọng không ngừng như Đức Giáo hoàng Phanxicô.
Chương hai: Người lạ trên đường
Phần lớn chương này dựa trên câu chuyện ngụ ngôn về Người Samari nhân hậu.
Các quyền chung của nhân loại không chỉ là những nguyên tắc pháp lý trừu tượng: “Sách Gióp coi nguồn gốc của ta từ một Đấng Tạo Hóa duy nhất là nền tảng của một số quyền chung: “Chẳng phải Đấng đã tạo ra tôi trong lòng mẹ cũng đã tạo nên anh ta đó sao? Và không phải cùng một Đấng ấy đã tượng hình chúng ta trong bụng mẹ đó sao?” (Gióp 31,15). Nhiều thế kỷ sau, Thánh Irênê đã sử dụng hình ảnh một giai điệu để đưa ra cùng một quan điểm: “Người tìm kiếm sự thật không nên tập trung vào các dị biệt giữa nốt này và nốt nọ, nghĩ rằng như thể mỗi nốt nhạc được tạo ra tách biệt và cách biệt với các nốt nhạc khác; thay vào đó, họ nên nhận ra rằng cũng chính người đó sáng tác toàn bộ giai điệu” (58).
Cựu Ước thường giới hạn trong những gì liên quan đến những người đồng bào. Tân Ước làm cho điều này trở nên phổ quát: “Trong Tân Ước, giới luật của Hillel đã được diễn tả bằng những từ ngữ tích cực: ‘Trong mọi việc, hãy làm cho người khác như bạn muốn họ làm cho bạn; vì đây là luật và các ngôn sứ’ (Mt 7,12). Mệnh lệnh này có tính phổ quát về phạm vi, bao trùm mọi người trên cơ sở chia sẻ cùng một kiếp người, vì Cha trên trời “làm cho mặt trời của Người mọc trên kẻ dữ và người lành’ (Mt 5,45)”. (60)
Dù là các thành viên được tôn vinh trong xã hội đến đâu, ta cũng cần quan tâm đến công ích. “Đức Giêsu kể câu chuyện về một người đàn ông bị kẻ trộm hành hung và bị thương nằm bên vệ đường. Một số người đi ngang qua ông, nhưng không dừng lại. Đây là những người có các địa vị quan trọng trong xã hội, nhưng thiếu quan tâm thực sự đến công ích. Họ không lãng phí một vài phút để chăm sóc người bị thương, thậm chí cả khi người bị nạn xin giúp đỡ”. (63)
“Ta hãy thừa nhận rằng, với mọi tiến bộ ta đã đạt được, ta vẫn còn ‘mù chữ’ khi đụng tới việc đồng hành, chăm sóc và hỗ trợ những thành viên yếu đuối và dễ bị tổn thương nhất trong các xã hội phát triển của ta. Ta đã trở nên quen thuộc với việc nhìn đi hướng khác, đi ngang qua, làm ngơ các tình huống cho đến khi chúng ảnh hưởng trực tiếp đến ta”. (64)
Một lời nhắc nhở rằng tất cả chúng ta đều được kêu gọi yêu thương nhau. “Dụ ngôn [Người Samari nhân hậu] rõ ràng không bằng lòng với việc giảng đạo đức trừu tượng, và sứ điệp của dụ ngôn cũng không chỉ mang tính xã hội và đạo đức. Nó nói với ta về một khía cạnh thiết yếu và thường bị lãng quên là bản tính chung của con người chúng ta: ta được tạo dựng để đạt đến sự thành toàn chỉ có thể tìm thấy trong tình yêu. Ta không thể thờ ơ với đau khổ; ta không thể để bất cứ ai trải qua cuộc sống như một kẻ bị ruồng bỏ. Thay vào đó, ta nên cảm thấy phẫn nộ, bị thách thức ra khỏi sự cô lập thoải mái của ta và được biến đổi khi tiếp xúc với những đau khổ của con người. Đó là ý nghĩa của phẩm giá”. (68)
Một tóm lược khắt khe nhưng đích thực về dụ ngôn Người Samari nhân hậu: “Một lần được đối diện với cảnh đau thương của người đàn ông khốn khổ bên vệ đường. Sự phân biệt giữa Giuđê và Samari, giữa thầy tư tế và thương gia, mờ đi trở nên chẳng còn có ý nghĩa gì. Bây giờ chỉ có hai loại người: những người chăm sóc cho một người đang bị thương và những người đi ngang bỏ qua; những người cúi xuống để giúp đỡ và những người nhìn theo hướng khác và vội vàng bỏ đi”. (70)
Ta thường giống thầy tư tế và người Lêvi hơn là người Samari nhân hậu. “Dụ ngôn yêu cầu ta nhìn kỹ hơn những người qua đường. Sự thờ ơ lo lắng khiến họ bước qua phía bên kia đường – dù vô tội hay không, dù khinh bỉ hay chỉ là lơ đễnh – khiến thầy tư tế và thầy Lêvi trở thành một hình ảnh phản chiếu đáng buồn khoảng cách ngày càng lớn giữa ta và thế giới xung quanh. Có nhiều cách để bước qua ở một khoảng cách an toàn: ta có thể rút vào chính mình, làm ngơ phớt lờ những người khác, hoặc thờ ơ với cảnh ngộ của họ. Hoặc đơn giản chỉ là nhìn đi nơi khác, như ở một số quốc gia, hoặc một số khu vực của họ, có sự khinh miệt người nghèo và nền văn hóa của họ, và người ta nhìn đi chỗ khác, như thể một kế hoạch phát triển ngoại nhập sẽ đẩy những người đó lui đi. Đây là cách một số người biện minh cho sự thờ ơ của họ: người nghèo, những người mà những lời cầu xin giúp đỡ có thể chạm đến trái tim của họ, đơn giản là những người này không hiện hữu. Người nghèo không thuộc phạm vi quan tâm của họ”. (73)
Tất cả chúng ta đều được kêu gọi thay đổi thế giới. “Mỗi ngày đều mang đến cho ta một cơ hội mới, một khả thể mới. Ta không nên mong đợi mọi sự từ những người cai trị ta, vì điều đó trẻ con. Ta có không gian cần thiết để cùng chịu trách nhiệm trong việc tạo ra và áp dụng các tiến trình và các thay đổi mới. Ta hãy tham gia tích cực vào việc đổi mới và hỗ trợ các xã hội đang gặp nguy biến của ta”. (77)
“Ngài [Đức Giêsu] yêu cầu chúng ta không nên quyết định xem ai là người gần gũi đủ để trở thành người người thân cận của ta, mà đúng hơn chính ta phải trở thành người người thân cận của mọi người”. (79) Bác ái Kitô giáo không giới hạn chỉ ở một loại người.
Chương ba: Hình dung và hình thành một thế giới mở
Tình yêu đối với người khác đổi mới ta mạnh mẽ. “Trong sâu thẳm mỗi trái tim, tình yêu tạo ra những gắn kết và mở rộng sự hiện hữu, vì nó kéo người ta ra khỏi chính họ và hướng về tha nhân [65]. Vì ta được tạo dựng để yêu thương, nên trong mỗi chúng ta xem ra đều có ‘luật ekstasis [ra khỏi mình]’ vận hành: “người yêu ‘đi ra khỏi’ bản thân để tìm một sự hiện hữu viên mãn hơn nơi một người khác’ [66]. Vì lý do này, “con người đã luôn luôn phải đảm nhận thách đố vượt qua chính mình”. (88)
Các nhân đức luân lý cần được truyền đức ái. “Người ta có thể phát triển một số thói quen nào đó bề ngoài có vẻ giống như các giá trị luân lý: dũng cảm, tiết độ, cần mẫn và các nhân đức tương tự. Tuy nhiên, nếu các hành vi nhân đức luân lý khác nhau phải được điều hướng một cách đúng đắn, thì người ta cần phải lưu ý đến mức độ chúng cổ vũ sự cởi mở và hợp nhất với những người khác. Điều đó trở thành có thể nhờ đức ái Thiên Chúa ban. Thiếu đức ái, có lẽ ta chỉ có những nhân đức bề ngoài, không có khả năng nâng đỡ cuộc sống chung”. (91)
“Vậy thì tình yêu không chỉ là một loạt các hành động thi ân. Những hành động đó có nguồn gốc từ sự kết hợp ngày càng hướng tới những người khác, xem họ có giá trị, xứng đáng, làm hài lòng mình và đẹp ngoài dáng vẻ thể lý hay luân lý của họ. Tình yêu của ta đối với người khác, vì chính họ, thúc đẩy ta tìm kiếm điều tốt nhất cho cuộc sống của họ”. (94)
“Tình yêu… thúc đẩy ta hướng tới sự hiệp thông toàn cầu.” (95)
Ta cần bao gồm những người khuyết tật: “Tôi muốn đề cập đến một số ‘người lưu đày giấu mặt’ bị coi như thành phần ngoại lai trong xã hội. Nhiều người khuyết tật ‘cảm thấy họ hiện hữu mà không thuộc về ai và không tham gia gì’. Phần lớn vẫn ngăn cản họ không quyền đầy đủ quyền công dân. Mối quan tâm của ta không nên chỉ có chăm sóc họ mà còn bảo đảm để họ ‘tham gia tích cực vào cộng đồng dân sự và cộng đồng giáo hội’”. (98)
Chỉ có tôn trọng tự do thì không đủ: “Tình huynh đệ nảy sinh không những từ một bầu khí tôn trọng các tự do cá nhân, hoặc thậm chí từ một chính sách bình đẳng nào đó được chính quyền bảo đảm. Tình huynh đệ nhất thiết kêu gọi một điều gì đó lớn lao hơn, một điều đến phiên mình phát huy tự do và bình đẳng”. (103)
Phẩm giá của con người là nội tại, không dựa vào các hoàn cảnh: “Tình bạn xã hội và tình huynh đệ phổ quát nhất thiết kêu gọi sự thừa nhận giá trị của mỗi nhân vị, mọi lúc và mọi nơi. Nếu mỗi cá nhân đều có giá trị lớn như vậy, thì cần phải tuyên bố rõ ràng và chắc chắn rằng ‘nguyên sự kiện một số người sinh ra ở những nơi có ít tài nguyên hơn hoặc kém phát triển hơn không biện minh cho sự kiện là họ phải sống với một phẩm giá kém hơn’”. (106)
Nhắc lại đoạn trước nhưng nói về các khuyết tật hơn là nơi sinh ra: “Mọi người đều có quyền sống xứng hợp với phẩm giá và được phát triển toàn diện; quyền căn bản này không thể bị bất cứ nước nào bác bỏ. Mọi người có quyền này ngay cả khi họ không sản xuất được gì, hoặc được sinh ra hoặc phát triển với nhiều hạn chế. Điều này không làm giảm phẩm giá vĩ đại của họ như những nhân vị, một phẩm giá không dựa trên hoàn cảnh mà dựa vào giá trị nội tại của con người họ”. (107)
Đoạn 109 khá dài dòng nhưng nhắc ta phải tôn trọng người khuyết tật dù tình trạng kinh tế của họ như thế nào: “Một số người sinh ra trong các gia đình ổn định về kinh tế, nhờ thế, nhận được nền giáo dục tốt, lớn lên được nuôi dưỡng tốt hoặc tự nhiên có được tài năng lớn. Họ chắc chắn sẽ không cần đến một nhà nước tích cực chủ động; họ chỉ cần đòi tự do của họ. Tuy nhiên, một quy tắc giống hệt vậy rõ ràng không áp dụng cho một người khuyết tật, cho người sinh ra trong hoàn cảnh nghèo khó, cho những người thiếu nền giáo dục tốt và ít được tiếp cận với sự chăm sóc sức khỏe thỏa đáng. Nếu một xã hội được điều hành chủ yếu bằng các tiêu chuẩn tự do và hiệu năng của thị trường, thì không có chỗ cho những người đó, và tình huynh đệ sẽ mãi mãi chỉ là một lý tưởng mơ hồ khác mà thôi”.
Vô luân và hời hợt là kẻ thù luân lý Kitô giáo. “Ta đã có đủ sự vô luân và nhạo báng luân lý, lòng tốt, đức tin và sự trung thực. Đã đến lúc phải thừa nhận rằng sự hời hợt nhẹ dạ đã chẳng đem gì tốt cho ta. Một khi các nền tảng đời sống xã hội bị xói mòn, điều xảy ra sau đó là những cuộc đấu tranh giành giật các lợi ích xung khắc nhau”. (113)
Nhân đức bắt đầu từ gia đình: “Gia đình là nơi đầu tiên trong đó ta sống và lưu truyền các giá trị tình yêu và tình huynh đệ, tình liên đới, việc cùng nhau chia sẻ, quan tâm và chăm sóc người khác”. (114)
Tập trung vào các quyền của tất cả mọi người vào các đặc quyền của một vài người. “Thế giới hiện hữu vì mọi người, bởi vì tất cả chúng ta sinh ra đều có cùng phẩm giá. Các khác biệt về màu da, tôn giáo, tài năng, nơi sinh hoặc nơi cư trú, và nhiều điều khác, không thể dùng để biện minh cho các đặc quyền của một số người trên các quyền của tất cả mọi người”. (118)
Bài học từ hai Giáo Phụ: “Không chia sẻ sự giàu có của ta với người nghèo là cướp đi sinh kế của họ. Của cải chúng ta sở hữu không phải của riêng ta mà là của cả họ nữa” – Thánh Gioan Kim Khẩu. “Khi ta cung cấp những nhu cầu căn bản cho người nghèo, ta đang đem lại cho họ những gì thuộc về họ, chứ không thuộc về ta”. – Thánh Grêgôriô Cả (119)
Giáo hội khẳng định những không tuyệt đối hoá quyền tư hữu. “Truyền thống Kitô giáo chưa bao giờ công nhận quyền tư hữu là tuyệt đối hoặc bất khả xâm phạm, và đã nhấn mạnh đến mục đích xã hội của mọi hình thức tư hữu”. (120)
Làm việc và xây dựng sự giàu có không phải là tội lỗi, thay vào đó, nó có thể là một phần của một ơn gọi. “Hoạt động kinh doanh, tự trong yếu tính, là ‘một ơn gọi cao quý, hướng đến việc sản xuất ra của cải và cải thiện thế giới của chúng ta’. Thiên Chúa khuyến khích ta phát triển các tài năng Ngài đã ban cho ta, và Ngài đã biến vũ trụ của ta thành một vũ trụ có tiềm năng mênh mông. Trong kế hoạch của Thiên Chúa, mỗi cá nhân được kêu gọi thăng tiến sự phát triển chính họ, và điều này bao gồm việc tìm ra các phương tiện kinh tế và công nghệ tốt nhất để nhân rộng của cải ra và gia tăng thịnh vượng”. (123)
“Quyền tư hữu luôn đi kèm với nguyên tắc hàng đầu và đi trước là mọi tư hữu tùy thuộc việc phân phối phổ quát các của cải của trái đất, và do đó mọi người có quyền chung hưởng”.(123)
Ta nên tìm kiếm cho tất cả mọi người những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. “Nếu ta chấp nhận nguyên tắc lớn là có những quyền phát sinh từ nhân phẩm bất khả chuyển nhượng của ta, thì ta có thể đương đầu với thách thức dự kiến một nhân loại mới. Ta có thể khát mong một thế giới biết cung cấp đất đai, nhà ở và công việc cho mọi người”. (127)
Chương Bốn: Một trái tim rộng mở cho cả thế giới
Một quan điểm cân bằng là ưu tiên cho tất cả các nước đang phát triển nhưng công nhận rằng di cư đôi khi còn ưu tiên hơn: “Lý tưởng là phải tránh được việc di dân không cần thiết; điều này đòi hỏi phải tạo ra nơi các nước gốc những điều kiện cần thiết cho một cuộc sống xứng đáng và một cuộc phát triển toàn diện. Tuy nhiên, cho đến khi mục tiêu này đạt được các tiến bộ đáng kể, ta có nghĩa vụ tôn trọng quyền của mọi cá nhân tìm được một nơi đáp ứng các nhu cầu căn bản của họ và của gia đình họ, và là nơi họ có thể tìm thấy sự thành toàn bản thân. Phản ứng của ta đối với việc các di dân đến với ta có thể được tóm tắt trong bốn từ sau đây: chào đón, bảo vệ, thăng tiến và hội nhập”. (129)
Việc nhập cư làm ta thêm phong phú: “Việc những người khác biệt, đến từ những lối sống và nền văn hóa khác, có thể là một ơn phúc, vì ‘các câu chuyện của di dân luôn là các câu chuyện về gặp gỡ giữa các cá nhân và giữa các nền văn hóa. Đối với các cộng đồng và các xã hội nơi họ đến, các di dân mang tới một cơ hội làm giàu và phát triển con người toàn diện cho mọi người’”. (133)
Một thế giới toàn cầu hóa khiến tất cả chúng ta đều kết nối với nhau: “Ta cần phát triển ý thức cho rằng ngày nay tất cả chúng ta được cứu cùng với nhau hoặc không ai được cứu cả. Nghèo đói, suy thoái và đau khổ ở một phần của trái đất là cơ sở thầm lặng nuôi dưỡng các vấn đề kết cục sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ hành tinh. Nếu ta bối rối bởi sự tuyệt chủng của một số loài, thì ta càng trở nên bối rối hơn khi ở một số nơi trên thế giới, các cá nhân hoặc các dân tộc đang bị ngăn cản phát triển tiềm năng và vẻ đẹp của họ bởi nghèo khó hoặc những hạn chế khác có tính cơ cấu. Rút cục, điều này sẽ làm tất cả chúng ta nghèo đi”. (137)
Đừng làm trống rỗng các văn hóa địa phương có giá trị quan trọng! Nhưng cũng đừng quên những mối liên hệ rộng lớn hơn. “Một căng thẳng nội tại hiện hữu giữa toàn cầu hóa và địa phương hóa. Ta cần chú ý đến toàn cầu để tránh sự hẹp hòi và tầm thường. Tuy nhiên, ta cũng cần nhìn vào địa phương, nơi giữ chân ta trên mặt đất. Cùng nhau, cả hai ngăn ta rơi vào một trong hai thái cực. Đầu tiên, con người bị cuốn vào một vũ trụ trừu tượng, toàn cầu hóa… Mặt khác, chúng biến thành một bảo tàng văn hóa dân gian địa phương, cách biệt với thế giới, cam chịu làm đi làm lại những điều giống nhau, không có khả năng bị thách thức bởi tính mới hoặc sự đánh giá cao vẻ đẹp mà Thiên Chúa ban tặng vượt ra ngoài biên giới của chúng”. (142)
Hãy bắt đầu với văn hóa của chính mình. “Cũng như không thể có đối thoại với ‘người khác’ mà không có ý thức về bản sắc của chính mình, vì vậy không thể có sự cởi mở giữa các dân tộc ngoại trừ trên cơ sở tình yêu đối với đất đai của mình, dân tộc của mình, các cội nguồn văn hóa của mình”. (143)
“Một sự cởi mở lành mạnh không bao giờ đe dọa bản sắc riêng của ta. Một nền văn hóa sống, được trở nên phong phú bởi các yếu tố từ các nơi khác, không du nhập một bản sao đơn thuần các yếu tố mới đó, nhưng hội nhập chúng theo phương cách độc đáo riêng của nó. Kết quả là một cuộc tổng hợp mới, chung cuộc có lợi cho mọi người, vì nền văn hóa nguyên gốc rút cục được nuôi dưỡng”. (148)
“Sẽ hữu ích khi nhớ rằng xã hội toàn cầu không phải là tổng số các quốc gia khác nhau, mà là sự hiệp thông hiện hữu giữa các quốc gia đó”. (149)
Chương Năm: Một loại chính trị tốt hơn
Tóm tắt chương: “Sự phát triển một cộng đồng huynh đệ toàn cầu dựa trên việc thực hành tình bạn xã hội về phần các dân tộc và các quốc gia đòi phải có một loại chính trị tốt hơn, loại thực sự phục vụ công ích. Buồn thay, chính trị ngày nay thường mang các hình thức cản trở tiến bộ hướng đến một thế giới khác”. (154)
“Ngày nay, không thể bày tỏ quan điểm về bất cứ chủ đề nào mà không bị phân loại cách này hay cách khác, hoặc bị mất uy tín một cách bất công hoặc được tung hô lên trời xanh” (155) Tôi thường thấy điều này như thế nào trong cuộc bàn thảo Công giáo trực tuyến?
Chủ nghĩa dân túy về bản chất không tốt cũng không xấu nhưng nó “có thể biến chất thành một ‘chủ nghĩa dân túy’ không lành mạnh khi các cá nhân có thể khai thác văn hóa của một dân tộc về mặt chính trị, dưới bất kỳ ngọn cờ ý thức hệ nào, vì lợi ích cá nhân của họ hoặc vì tiếp tục nắm quyền. Hoặc khi, vào những lúc khác, họ tìm kiếm sự nổi tiếng bằng cách thu hút những khuynh hướng cơ bản và ích kỷ nhất của một số thành phần dân số. Điều này càng trở nên nghiêm trọng hơn khi, dù ở những hình thức thô thiển hơn hay tinh vi hơn, nó dẫn đến việc chiếm đoạt các thể chế và pháp luật”. (159)
“Việc làm… là sự giúp đỡ tốt đẹp nhất mà ta có thể dành cho người nghèo, con đường tốt nhất để có một cuộc sống hợp nhân phẩm. Do đó, tôi xin nhấn mạnh rằng, ‘giúp đỡ người nghèo về mặt tài chính luôn phải là một giải pháp tạm thời trước những nhu cầu cấp bách. Mục tiêu rộng lớn hơn luôn phải là giúp họ có một cuộc sống có phẩm giá qua việc làm’”. (162)
“Tình yêu người lân cận có tính cụ thể và không lãng phí các nguồn lực cần thiết nào để việc mang lại thay đổi có tính lịch sử có thể ích lợi cho những người nghèo và những người bị thiệt thòi. Tuy nhiên, đôi khi, các ý thức hệ cánh tả hoặc các học thuyết xã hội liên kết với phương thức hành động cá nhân chủ nghĩa và các thủ tục không hữu hiệu chỉ ảnh hưởng đến một số ít người, trong khi phần lớn những người bị bỏ quên vẫn phải phụ thuộc vào thiện chí của những người khác”. (165) Giáo hoàng Phanxicô phê bình những người ích kỷ cánh tả cũng như ngài phê bình những người ích kỷ cách hữu.
Chính trị không nên chỉ hoạt động cho những người quyền lực. “Mọi sự đều phụ thuộc vào khả năng ta nhìn thấy nhu cầu thay đổi tâm hồn, các thái độ và các lối sống. Nếu không, tuyên truyền chính trị, các phương tiện truyền thông và những người định hình công luận sẽ tiếp tục cổ vũ một nền văn hóa cá nhân chủ nghĩa và không phê phán, lệ thuộc các lợi ích kinh tế và các định chế xã hội không bị pháp luật điều chỉnh nhằm phục vụ những người đã hưởng quá nhiều quyền lực”. (166)
“Thị trường, tự bản thân nó, không thể giải quyết mọi vấn đề, cho dù ta được yêu cầu tin vào tín điều này của niềm tin tân tự do như thế nào”. (168) Điều này không có nghĩa là thị trường không thể giải quyết nhiều vấn đề nhưng đó không phải là phương cách chữa trị bách bệnh tất cả các vấn đề xã hội.
Công lý có nghĩa là không có ai là tuyệt đối: “Trả cho mỗi người phần của họ – trích dẫn định nghĩa cổ điển về công lý – có nghĩa là không một cá nhân hay nhóm nào có thể xem mình là tuyệt đối, có quyền bỏ qua phẩm giá và các quyền của các cá nhân khác hoặc các nhóm xã hội của họ”. (171)
Cộng đồng quốc tế tương tự như một cộng đồng con người. “Cộng đồng quốc tế là một cộng đồng pháp lý được thành lập trên chủ quyền của mỗi nước thành viên, không có các ràng buộc về sự phụ thuộc phủ nhận hoặc hạn chế tính độc lập của nước đó”. (173)
Hiệu quả hay tiền bạc không phải là các mục tiêu trong xã hội. “Chính trị không được phụ thuộc kinh tế, và kinh tế cũng không được phụ thuộc các mệnh lệnh của một mô hình kỹ trị dựa trên hiệu năng”. (177)
Tình bạn như một hình thức bác ái: “Công nhận rằng mọi người đều là các anh chị em của ta, và tìm kiếm các hình thức tình bạn xã hội bao gồm mọi người, không phải chỉ là điều không tưởng. Điều đó đòi hỏi một cam kết cương quyết để thiết kế các phương tiện hữu hiệu cho mục đích này. Bất kỳ nỗ lực nào theo những đường hướng này đều trở thành một việc thực thi đức ái cao quý”. (180)
Tưởng tượng đây là cách bắt đầu các cuộc thảo luận chính trị: “Đức ái, với sự thúc đẩy của nó hướng tới tính phổ quát, có khả năng xây dựng một thế giới mới”. (183)
Chân lý & Đức ái: “Đức ái cần ánh sáng của sự thật mà ta không ngừng tìm kiếm. ‘Ánh sáng đó vừa là ánh sáng của lý trí vừa là ánh sáng của đức tin’”. (185)
“Đức ái, là trái tim thiêng liêng của chính trị, luôn luôn là tình yêu thương dành ưu tiên cho những người thiếu thốn nhất; đức ái nâng đỡ mọi điều ta làm cho họ. Chỉ một cái nhìn do đức ái biến đổi mới có thể giúp phẩm giá của tha nhân được công nhận và do đó, người nghèo được thừa nhận và đánh giá cao về phẩm giá của họ, được tôn trọng về bản sắc và nền văn hóa của họ, và do đó thực sự hội nhập trong xã hội”. (187)
Các chính trị gia cần nhìn sâu hơn các vấn đề thực tế chứ không chỉ có nhìn vấn đề dân tuý. “Mối quan tâm lớn nhất của chính trị gia không nên về bởi sự sụt giảm trong các cuộc thăm dò, mà về các giải pháp hữu hiệu cho “hiện tượng loại trừ về kinh tế và xã hội, với những hậu quả đáng buồn của nó: buôn người, buôn bán các cơ phận và các mô người, việc khai thác tình dục trẻ em nam nữ, lao động nô lệ, kể cả mại dâm, buôn bán ma túy và vũ khí, khủng bố và tội phạm quốc tế có tổ chức”. (188)
“Hàng tấn thực phẩm bị vứt bỏ. Điều này tạo một tai tiếng thực sự. Nạn đói là một tội ác; thực phẩm là một quyền bất khả chuyển nhượng’. Thông thường, trong khi tiếp tục tranh cãi về ngữ nghĩa hoặc ý thức hệ, ta để cho anh chị em của mình chết đói chết khát, không nơi nương tựa hoặc không được tiếp cận sự chăm sóc sức khỏe”. (189) Nếu bạn muốn đọc thêm về quyền đối với thực phẩm, chỗ ở và sự chăm sóc y tế, tôi đã viết về đề tài này.
Chương 6: Đối thoại và tình bạn trong xã hội
Tranh luận trực tuyến không phải là đối thoại: “Đối thoại thường bị nhầm lẫn với một điều rất khác biệt: sôi nổi trao đổi ý kiến trên mạng xã hội, thường xuyên dựa trên thông tin truyền thông không phải luôn luôn đáng tin cậy. Những cuộc trao đổi này chỉ đơn thuần là những cuộc độc thoại song hành. Chúng có thể thu hút sự chú ý bởi giọng điệu gay gắt và hung hăn. Nhưng các cuộc độc thoại không lôi kéo được ai và nội dung của chúng thường mang tính tự phục vụ và mâu thuẫn”. (200)
Các phương tiện truyền thông thường cản trở đối thoại: “sự kiện và ý kiến ồn ào của các phương tiện truyền thông thường gây trở ngại cho đối thoại, vì nó cho phép mọi người bám lấy các ý tưởng, sở thích và lựa chọn riêng của họ một cách ương ngạnh, với lời bào chữa rằng mọi người khác đều sai lầm”. (201)
“Đối thoại xã hội chân chính bao gồm khả năng tôn trọng quan điểm của người khác và thừa nhận rằng nó có thể bao gồm những xác tín và mối quan tâm chính đáng… Khi các cá nhân hoặc các nhóm nhất quán trong suy nghĩ của họ, bảo vệ các giá trị và xác tín của họ, và khai triển các lập luận của họ, thì điều này chắc chắn có lợi cho xã hội. Tuy nhiên, điều này chỉ có thể xảy ra theo mức độ có sự đối thoại đích thực và cởi mở với người khác”. (203)
Sự thật có thể khó tìm nhưng đáng cho ta ra sức nỗ lực: “Ta cần học cách vạch trần những phương cách thao túng, bóp méo và che giấu sự thật trong ngôn từ công khai và riêng tư. Điều chúng ta gọi là ‘sự thật’ không những chỉ là việc tường thuật các sự kiện và biến cố, như ta thấy trong các báo hàng ngày. Nó chủ yếu là việc tìm kiếm các nền tảng vững chắc nâng đỡ các quyết định và luật lệ của ta. Điều này đòi hỏi phải thừa nhận rằng tâm trí con người có khả năng vượt qua những mối quan tâm trước mắt và nắm bắt một số sự thật bất biến, đúng bây giờ cũng như trong quá khứ. Nhờ biết nhìn vào bản chất của con người, lý trí khám phá ra những giá trị phổ quát bắt nguồn từ cùng một bản chất”. (208)
Luân lý công phải dựa trên các giá trị đạo đức khách quan: “Thừa nhận sự hiện hữu của một số giá trị vững bền nào đó, dù việc biện phân chúng đòi buộc cho đến đâu, mang lại một nền luân lý xã hội mạnh mẽ và vững chắc”. (211)
Một lời nhắc nhở về luật tự nhiên ở cấp độ xã hội: “Sự kiện một số quy tắc nào đó cấp thiết đối với chính cuộc sống của xã hội là một dấu hiệu cho thấy chúng vốn tốt trong và tự bản thân chúng”. (212)
Ta cần đối thoại cởi mở không khép kín trong bản thân: “Hình ảnh khối đa diện có thể tượng trưng một xã hội trong đó các khác biệt cùng hiện hữu, bổ sung, làm phong phú và soi sáng lẫn nhau, ngay cả giữa những bất đồng và dè chừng. Mỗi chúng ta đều có thể học được điều gì đó từ những người khác. Không ai vô dụng và không ai có thể bị hy sinh. Điều này cũng có nghĩa phải tìm cách bao gồm những người hiện nằm ở ngoại vi cuộc sống”. (215)
Hòa bình chân chính thật là khó: “Hòa bình xã hội đòi hỏi sự chăm chỉ và khéo léo. Giữ các tự do và các khác biệt trong vòng kiểm soát bằng sự khôn khéo và một ít nguồn lực thì sẽ dễ dàng hơn. Nhưng một nền hòa bình như vậy sẽ hời hợt và mong manh, không phải là thành quả của một nền văn hóa gặp gỡ mang lại sự ổn định lâu dài. Hòa nhập những khác biệt là một quá trình khó khăn và chậm chạp hơn nhiều, nhưng nó là sự đảm bảo cho một nền hòa bình thực sự và lâu dài”. (217)
Ta cần xây dựng một giao ước giữa các dân tộc. “Một giao ước như vậy cũng đòi hỏi nhận thức rằng một số điều có thể bị từ bỏ vì công ích. Không ai có thể chiếm hữu toàn bộ sự thật hoặc thỏa mãn mọi mong muốn của mình, vì kỳ vọng đó sẽ dẫn đến việc triệt tiêu người khác bằng cách khước từ các quyền của họ. Một khái niệm sai lầm về lòng khoan dung phải nhường chỗ cho một chủ nghĩa hiện thực mang tính đối thoại về phần những người nam và những người nữ vẫn trung thành với các nguyên tắc riêng của họ trong khi công nhận rằng những người khác cũng có quyền làm như vậycủa họ”. (221)
“Lòng tử tế giải thoát ta khỏi sự độc ác đôi khi tiêm nhiễm các tương quan con người, khỏi sự lo lắng ngăn ta nghĩ đến người khác, khỏi hành động cuồng nhiệt quên rằng người khác cũng có quyền được hạnh phúc. Ngày nay, ta thường không có cả thời gian lẫn năng lực để ngừng lại và tỏ ra tử tế với người khác, để nói ‘xin lỗi’, ‘xin bỏ qua cho tôi’, ‘cảm ơn’”. (224)
Chương bảy: Các nẻo đường của cuộc gặp gỡ đổi mới
Tóm tắt chương: “Cần có những người xây dựng hòa bình, những người nam và người nữ được chuẩn bị làm việc một cách quả cảm và sáng tạo nhằm khởi xướng những tiến trình chữa lành và cuộc gặp gỡ đổi mới”. (225)
“Sự thật, trên thực tế, là người bạn đồng hành không thể tách rời của công lý và lòng thương xót. Xây dựng hòa bình nhất thiết phải có cả ba”. (227)
Hòa bình đem lại một xã hội với cá nhân thuộc nhiều loại cùng tồn tại: “Con đường hòa bình không có nghĩa là biến xã hội thành đồng nhất một cách đơn điệu, mà là làm cho người ta làm việc với nhau, chung vai sát cánh, theo đuổi những mục tiêu có lợi cho mọi người” (228)
Một cảm thức thuộc về nhau: “Làm việc để vượt qua các chia rẽ của chúng ta mà không đánh mất căn tính của mình với tư cách những cá nhân giả thiết phải có một cảm thức căn bản thuộc về nhau hiện diện trong mọi người. Thật vậy, ‘xã hội sẽ có lợi khi mỗi người và mỗi nhóm xã hội thật sự cảm thấy an nhiên’”. (230)
Hòa bình cần phải nỗ lực để duy trì: “Việc xây dựng hòa bình trong xã hội của một quốc gia không bao giờ kết thúc; đúng hơn, đó là ‘một công cuộc trường kỳ, không bao giờ chấm dứt, đòi hỏi sự dấn thân của mọi người, và thách đố ta làm việc không ngừng để xây dựng sự hiệp nhất của đất nước’”. (232)
“Thường những thành viên yếu ớt hơn của xã hội là những nạn nhân của những khái quát hóa bất công. Nếu có những lúc người nghèo và những người vô sản phản ứng với những thái độ có vẻ phản xã hội, ta nên nhận ra rằng trong nhiều trường hợp những phản ứng đó phát sinh từ một lịch sử bị khinh miệt và bị xã hội loại trừ”. (234) Mặc dù không được đề cập đến ở đây một cách chính danh, tôi nghĩ điều này cũng áp dụng cho cách người tàn tật đã bị loại trừ.
Làm thế nào để yêu kẻ thù của ta: “Ta được kêu gọi yêu thương mọi người, không loại trừ ai; đồng thời, việc yêu thương một kẻ áp bức không phải là cứ cho phép kẻ ấy tiếp tục áp bức mình, hay để cho kẻ ấy nghĩ rằng điều kẻ ấy làm là có thể chấp nhận được. Trái lại, tình yêu đích thực đối với một kẻ áp bức nghĩa là tìm cách làm cho kẻ ấy ngừng việc áp bức của hắn; có nghĩa là tước hắn khỏi một quyền lực hắn đã không biết cách sử dụng, và quyền lực ấy làm giảm tính người của hắn và của những người khác. Tha thứ không phải là cho phép những kẻ áp bức tiếp tục chà đạp lên phẩm giá của chính họ và phẩm giá của người khác, hay để cho những kẻ tội phạm tiếp tục phạm tội”. (241)
Tức giận không dẫn đến công lý: “Điều quan trọng là không chọc giận, vốn không tốt cho tâm hồn ta và tâm hồn của những người khác, hoặc bị ám ảnh bởi việc trả thù và hủy diệt người khác. Không ai đạt đến sự bình an nội tâm hay trở về với một đời sống bình thường bằng cách đó”. (242)
Một điều cần nhớ về bí tích hoà giải: “Hòa giải là một hành vi cá nhân, và không ai có thể áp đặt trên toàn xã hội, cho dù nhu cầu cần phải hoà giải lớn đến đâu chăng nữa”. (246)
Mối quan hệ giữa tha thứ và lãng quên: “Tha thứ không có nghĩa là quên lãng. Hay đúng hơn, đứng trước một thực tại không thể phủ nhận, tương đối hoá hay che giấu, thì tha thứ vẫn có thể. Đứng trước một hành động không bao giờ có thể dung thứ, biện minh hay bỏ qua, ta vẫn có thể tha thứ. Đứng trước một điều gì đó không thể quên vì bất cứ lý do nào, ta vẫn có thể tha thứ. Sự tự nguyện và thành tâm tha thứ là điều cao quý, một phản ánh chính khả năng tha thứ vô biên của Thiên Chúa. Nếu tha thứ là nhưng không, thì nó có thể thể hiện ngay cả đối với một người chống lại sự hối cải và không có khả năng xin tha thứ”. (250)
“Công lý được tìm kiếm đúng đắn chỉ từ tình yêu đối với chính công lý, từ lòng tôn trọng các nạn nhân, như một phương cách phòng tránh những tội ác mới và bảo vệ công ích, chứ không phải như một nút xả cơn giận cá nhân. Tha thứ chính là điều khiến ta theo đuổi công lý mà không rơi vào một vòng xoáy báo thù hay sự bất công vì quên lãng”. (252)
Phần cuối của chương này đề cập đến hai điểm gây tranh cãi nhất.
Không còn chiến tranh nữa
“Chiến tranh là sự phủ nhận mọi quyền và là một tấn công khủng khiếp vào môi trường. Nếu ta muốn sự phát triển nhân bản chân chính toàn diện cho mọi người, ta phải nỗ lực không mệt mỏi phòng tránh chiến tranh giữa các quốc gia và các dân tộc. Cho mục đích này, cần bảo đảm nền pháp trị vững vàng và không mệt mỏi kiếm tìm sự thương lượng, hoà giải và trọng tài”. (257)
Ta không nên sử dụng lý luận sai lầm để biện minh cho các cuộc chiến tranh. Tiêu chí cho các cuộc chiến tranh chính nghĩa thường được giải thích quá rộng. “Trong những thập niên gần đây, mọi cuộc chiến tranh đơn phương bề ngoài đều đã được ‘biện minh’. Giáo lý Hội Thánh Công giáo nói về khả năng phòng vệ chính đáng bằng phương tiện vũ trang quân sự, điều này bao hàm một số ‘điều kiện nghiêm ngặt về tính chính đáng về mặt luân lý’ (239) phải được đáp ứng. Nhưng thật dễ rơi vào một sự giải thích quá rộng về quyền mang tính tiềm năng này. Về phương cách này, một số người sẽ biện minh một cách sai trái ngay cả những cuộc tấn công ‘phòng vệ’, hay những hành vi chiến tranh vốn khó tránh khỏi việc gây ra ‘những sự dữ và những hỗn loạn trầm trọng hơn cả sự dữ cần bị loại trừ’”. (258) Đây không phải là sự bác bỏ thuyết chiến tranh chính nghĩa, mà là để làm rõ sự ngăn cấm nào cần được đáp ứng.
“Xem xét điều này [sự phát triển vũ khí hạt nhân, vũ khí hoá học và vũ khí sinh học], ngày nay rất khó nêu lên những tiêu chuẩn hợp lý được liệt kê trong các thế kỷ trước để nói về khả năng một cuộc ‘chiến tranh chính nghĩa’. Đừng bao giờ chiến tranh nữa!” (258) Những dòng này lặp lại lời Đức Phaolô VI nói với LHQ năm 1965: “Không bao giờ chiến tranh nữa, không bao giờ chiến tranh nữa! Chính hòa bình, hòa bình, phải định hướng cho vận mệnh các quốc gia toàn thể nhân loại!”
“Theo lời Thánh Gioan XXIII: ‘Không còn ý nghĩa gì việc khẳng định chiến tranh là một công cụ thích hợp để sửa chữa những vi phạm công lý’”. (260) Đây là một lời kêu gọi khắc phục sự bất công theo những phương cách khác.
“Mọi cuộc chiến tranh đều để lại cho chúng ta một thế giới tệ hơn trước. Chiến tranh là một thất bại của chính trị và của nhân loại, một sự đầu hàng đáng xấu hổ, một sự khuất phục đau đớn trước những sức mạnh của sự dữ”. (261) Điều này nhắc ta rằng bảo vệ bản thân và các quốc gia của mình khỏi tội ác nghiêm trọng là một phần của định nghĩa chiến tranh chính nghĩa.
“Bản thân các luật lệ sẽ không đủ nếu ta tiếp tục nghĩ rằng giải pháp cho các vấn đề hiện tại là răn đe bằng sự sợ hãi hoặc mối đe dọa từ vũ khí hạt nhân, hóa học hoặc sinh học… Ta cũng cần tự hỏi mình rằng sự ổn định dựa trên nỗi sợ hãi bền vững như thế nào, khi nó thực sự làm gia tăng nỗi sợ hãi và phá hoại mối quan hệ tin cậy giữa các dân tộc. Hòa bình và ổn định quốc tế không thể dựa trên cảm giác an toàn sai lầm, dựa trên mối đe dọa hủy diệt lẫn nhau hoặc tiêu diệt hoàn toàn, hoặc chỉ đơn giản là duy trì một sự cân bằng quyền lực”. (262) Giáo hội đã kêu gọi loại bỏ vũ khí hạt nhân ít nhất 50 năm qua vì dường như rất khó có thể sử dụng vũ khí hạt nhân một cách chính đáng. Đây là sự lặp lại lời kêu gọi giải trừ quân bị(đa phương) lẫn nhau.
Hình phạt tử hình
Tiền đề cơ bản của phần án phạt tử hình: “Thánh Gioan Phaolô II tuyên bố rõ ràng và mạnh mẽ rằng án tử hình là điều không thích đáng xét theo một quan điểm luân lý, và không còn cần thiết xét theo quan điểm tư pháp hình sự. (246) Ta không thể thoái bước khỏi lập trường này. Ngày nay ta tuyên bố rõ ràng rằng “án tử hình là điều không thể chấp nhận” (247) và Giáo hội dấn thân mạnh mẽ để kêu gọi hủy bỏ án tử hình trên toàn thế giới”. (263)
“Không nên có ngoại lệ nào cả; việc giết một con người luôn luôn là phi pháp”. Lactantius (Giáo phụ thời Giáo hội Sơ khai) Giáo hoàng Nicholas I yêu cầu chính phủ “tránh dùng án tử hình không chỉ đối với mỗi người vô tội, mà còn đối với tất cả những kẻ phạm tội nữa”. (265)
Sự trừng phạt không nên mang tính chất báo thù. “Sợ hãi và oán hận có thể dễ dẫn tới việc xem hình phạt như một cách trả đũa và thậm chí độc ác, thay vì như một phần của một tiến trình chữa lành và tái hội nhập vào xã hội”. (266)
Luôn có những lựa chọn khác bên cạnh án tử hình. “’Thật không thể tưởng tượng các nhà nước hiện nay không có phương tiện nào khác ngoài án tử hình để bảo vệ mạng sống người khác trước kẻ tấn công quá khích’. Đặc biệt trầm trọng về khía cạnh này là những vụ gọi là hành quyết không qua xét xử hay ngoài vòng pháp luật, đó là những vụ ‘cố ý giết người do một số nhà nước và bởi các mật vụ của họ ra tay’”. (267)
“Tất cả các Kitô hữu và những người thiện chí ngày nay được kêu gọi hành động không chỉ cho việc hủy bỏ án tử hình, hợp pháp hay bất hợp pháp, dưới mọi hình thức, mà còn được kêu gọi hành động để cải thiện các điều kiện lao tù, vì tôn trọng nhân phẩm của những người bị tước mất tự do. Tôi muốn nối kết điều này với án tù chung thân… Hình phạt án tù chung thân là một án tử hình bí mật.” (268) Thông thường án tù chung thân nên tránh, nhưng điều này không phải không thể sử dụng chúng trong những trường hợp hiếm hoi không còn cách nào khác để bảo vệ xã hội.
Chương 8: Các tôn giáo phục vụ tình huynh đệ trong thế giới chúng ta
Tóm tắt phần này: “Các tôn giáo khác nhau, dựa trên sự tôn trọng của họ đối với mỗi con người như một thụ tạo được kêu gọi làm con Thiên Chúa, góp phần đáng kể vào việc xây dựng tình huynh đệ và bảo vệ công lý trong xã hội”. (271)
Tình huynh đệ đích thực dựa trên việc tất cả mọi người đều là con của cùng một Cha: “Với tư cách tín hữu, ta tin chắc rằng, nếu không có sự cởi mở với Cha của mọi người, sẽ không có các ý do vững chắc và bền vững để kêu gọi tình huynh đệ”. (272)
Ta cần bắt đầu từ chân lý siêu việt: “Nếu không có chân lý siêu việt, mà tuân theo đó con người đạt được bản sắc viên mãn của mình, thì không có nguyên tắc chắc chắn nào để bảo đảm các mối quan hệ ngay chính giữa con người với nhau. Sự tư lợi của họ với tư cách một giai cấp, một nhóm hay một quốc gia chắc chắn sẽ khiến họ đối lập với nhau. Nếu ta không thừa nhận chân lý siêu việt, thì sức mạnh của quyền lực sẽ thống lĩnh, và mỗi người có xu hướng tận dụng các phương tiện theo ý mình để áp đặt lợi ích riêng của mình hoặc ý kiến riêng của mình mà không đếm xỉa đến các quyền của những người khác.” (273)
Tôn giáo không chỉ là riêng tư: “Trong khi tôn trọng quyền tự trị của đời sống chính trị, Giáo hội không hạn chế sứ mệnh của mình trong phạm vi riêng tư. Ngược lại, ‘Giáo hội không thể và không được đứng ngoài lề’ trong việc xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, hoặc không ‘đánh thức lại nguồn năng lượng tâm linh’ có thể đóng góp vào việc làm cho xã hội trở nên tốt đẹp hơn”. (276)
Các chức sắc tôn giáo nên có thái độ tích cực về mọi vấn đề trừ vấn đề chính trị đảng phái: “Đúng là các vị chức sắc tôn giáo không được tham gia chính trị đảng phái vốn là lãnh vực thích hợp của giáo dân, nhưng họ cũng không được từ bỏ chiều kích chính trị của chính cuộc sống, liên quan đến sự lưu tâm thường xuyên đến công ích và quan tâm đến sự phát triển toàn diện của con người”. (276)
Tự do tôn giáo theo cả hai chiều: “Kitô hữu chúng ta yêu cầu, ở những quốc gia mà ta là thiểu số, ta phải được bảo đảm quyền tự do, ngay cả khi chính ta quảng bá quyền tự do đó cho những người không Kitô giáo ở những nơi họ là thiểu số. Một quyền cơ bản của con người không được quên trong hành trình hướng tới tình huynh đệ và hòa bình”. (279)
“Một hành trình hòa bình là có thể giữa các tôn giáo. Điểm xuất phát của nó phải là cách nhìn các sự việc theo Thiên Chúa. “Thiên Chúa không thấy bằng mắt của mình, Thiên Chúa thấy bằng trái tim. Và tình yêu của Thiên Chúa đối với tất cả mọi người là như nhau, không phân biệt tôn giáo. Ngay cả khi họ là những người vô thần, tình yêu của Ngài vẫn vậy”. (281)
Sự thờ phượng sinh hoa trái yêu thương chứ không phải hận thù: “Sự thờ phượng chân thành và khiêm tốn đối với Thiên Chúa ‘không sinh hoa trái phân biệt đối xử, hận thù và bạo lực, mà tôn trọng tính thánh thiêng của sự sống, tôn trọng phẩm giá và tự do của tha nhân, và dấn thân yêu thương vì phúc lạc của mọi người’. Quả thật, ‘ai không yêu, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu’ (1 Gioan 4, 8)”. (283)
Chúng ta nên đem đến hòa bình: “Mỗi người chúng ta được kêu gọi trở thành một người thợ của hòa bình, bằng cách hợp nhất chứ không chia rẽ, bằng cách dập tắt chứ không nắm chặt hận thù, bằng cách mở ra các con đường đối thoại chứ không xây các bức tường mới”. (284)
Ta hãy kết thúc bằng một lời cầu nguyện mà Đức Phanxicô trích dẫn trong đoạn trước (287):
Lạy Chúa, là Cha của gia đình nhân loại chúng con,
Chúa đã tạo ra tất cả mọi người bình đẳng về phẩm giá:
xin tuôn đổ tâm hồn chúng con một tinh thần huynh đệ
và khơi dậy trong chúng con giấc mơ gặp gỡ,
đối thoại, công lý và hòa bình mới.
Xin thúc đẩy chúng con kiến tạo các xã hội lành mạnh hơn
và một thế giới đàng hoàng hơn,
một thế giới không có đói nghèo, bạo lực và chiến tranh.
Xin cho trái tim chúng con rộng mở
với tất cả các dân tộc và các quốc gia trên trái đất.
Nguyện xin chúng con nhận ra những điều tốt đẹp
mà Chúa đã gieo vào trong mỗi người chúng con,
và nhờ đó tạo nên những mối dây hợp nhất, những dự án chung
và những ước mơ chung. Amen.
Đó là tất cả. Tôi hy vọng điều đó sẽ giúp bạn.